Âm nhạc quỷ dị’ và ‘nhạc cụ kỳ quái’ là dấu hiệu suy vong của một quốc gia
m nhạc có nguồn gốc từ rất lâu, tựa hồ như khi con người sinh ra thì âm nhạc cũng liền theo đó mà xuất hiện. Cổ nhân cho rằng, để sáng tác ra một ca khúc hay, một ca khúc chân chính thì người sáng tác phải có những điều kiện nhất định về đạo đức. Từ âm nhạc, người ta có thể biết được đạo đức của người sáng tác, sự thịnh suy của quốc gia.
Trong đó, không thể thiếu sự tiết chế dục vọng (ham muốn, lòng tham). Chỉ người tiết chế được sự “thèm muốn”, sự phóng túng của bản thân mới có thể sáng tác âm nhạc. Về phương pháp sáng tác cũng phải có những yêu cầu nhất định. Trong đó, nhất định phải là từ trong tâm thái bình hòa, thanh thản mới sáng tác ra được ca khúc hay. Sự bình hòa ấy lại là từ trong Đạo mà sinh ra.
Người cổ xưa cho rằng, âm nhạc chân chính là ca ngợi Thần tiên, Trời Đất và vạn vật. Nội hàm của âm nhạc là phải phản ánh được việc con người vì thuận theo tự nhiên, kính sợ Trời đất Thần linh mà được bình an. Qua đó âm nhạc cũng thể hiện được lòng biết ơn, hân hoan, vui sướng được sống tường hòa trong trời đất.
Các bậc thánh vương thời cổ đại vô cùng coi trọng âm nhạc, đó đều là bởi vì âm nhạc có thể khơi gợi tâm kính ngưỡng Thần linh của con người, gửi gắm tình cảm của con người đối với đấng siêu nhiên.
Vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Ân (Thương) sáng tác ra các ca khúc phóng túng buông thả. Họ đem những gì xa hoa cho là tốt đẹp, là tráng lệ, truy cầu sự hưởng lạc quá độ, không tuân thủ pháp tắc. Không những thế, các vị Vua ấy còn cho người sáng tác ra các ca khúc để ca ngợi những điều đó. Cuối cùng khiến nhà Hạ, nhà Ân đều sụp đổ.
Vào thời kỳ Tống quốc, Tề quốc, Sở quốc sụp đổ đều xuất hiện những ca khúc quỷ dị và những nhạc cụ kỳ quái. Những ca khúc, thể loại âm nhạc ngày càng phong phú hơn, nhưng những người có đạo thời bấy giờ lại cho rằng những loại âm nhạc đó đã đánh mất đi ý nghĩa gốc của âm nhạc.
Trong âm nhạc là có mức độ, có loại phóng túng buông thả, có loại ngay chính đứng đắn, có loại mà lời của nó đều mang hơi hướng dâm tà, kích thích dục vọng con người. Những người có tài đức, sáng suốt nhờ vào âm nhạc ngay chính mà hưng thịnh quốc gia. Trái lại, những người xấu, không có tài đức lại vì âm nhạc mà bị diệt vong. Trong lịch sử, điều này đều ứng nghiệm qua các triều đại của Trung Hoa cổ.
Chuyên Húc là người Nhược Thủy, là vua của Trung Hoa cổ đại, là một trong “ngũ Đế”. Chuyên Húc là một người trầm tĩnh, uyên bác, có mưu lược, làm gì cũng thấu tình đạt lý. Ông ước tính bốn mùa thuận theo tự nhiên, thuận theo thiên lý để lập ra lễ nghĩa, thuận theo lý lẽ thời tiết bốn mùa và ngũ hành để giáo hóa muôn dân. Ông thông hiểu mọi việc, biết chăm sóc mọi vật, sử dụng đất đai và ghi chép thời tiết, chú trọng việc giáo hóa và định ra các pháp tắc cai trị.
Chuyên Húc Đế khi vừa lên ngôi thì nghe thấy tiếng gió thổi rộn ràng, như giai điệu du dương của âm nhạc. Ông thích nghe những thanh âm của vạn vật trong đất trời, vì vậy liền lệnh cho người sáng tác nhạc khúc “Thừa Vân”. Ca khúc này chứa đựng những thanh âm trong trẻo tuyệt vời nội dung ca ngợi vẻ đẹp của vạn sự vạn vật trong giới tự nhiên và khung cảnh tươi đẹp sống động của trời đất vào mùa xuân vì vậy được dùng để cúng tế Trời.
Đế Khốc cũng là một trong “ngũ Đế” thời cổ đại. Khi lên ngôi kế vị, ông cũng rất chú trọng đến việc dùng âm nhạc để giáo hóa dân chúng. Ông lệnh cho người sáng tác nhạc, trong đó có “Cửu chiêu”, “Lục liệt”, “Lục anh”… Đồng thời, ông cũng lệnh cho người chế tác ra một số loại nhạc khí như trống, chuông, bàn thạch, khèn… Mỗi khi diễn tấu lại có chim phượng hoàng, chim trĩ từ trên trời bay xuống nhảy múa. Đế Khốc dùng âm nhạc để ca ngợi công đức của Thiên đế.
Sau khi Vua Nghiêu lên ngôi, đã lệnh cho vị nhạc sư rất nổi tiếng tên là Quỳ chế tác âm nhạc. Vị nhạc sư này dựa vào thanh âm của giới tự nhiên, tiếng suối chảy trong rừng… để mô phỏng lại mà làm thành các ca khúc. Vị nhạc sư này rất tinh thông âm luật, đặc biệt có tài về đánh chiếc khánh. Khánh là một loại nhạc khí hình dạng giống thước cuộn được làm bằng ngọc hoặc đá. Chỉ cần nhạc sư này đánh lên, thì muôn thú sẽ theo tiết tấu đó mà nhảy múa không ngừng. Về sau lại sáng tác ra ca khúc lấy tên là “Đại Chương” để hiến tế Trời.
Khi Vua Thuấn lên ngai vị, cảm thấy tác dụng của âm nhạc rất lớn muốn bổ nhiệm một vị nhạc quan, nên đã chọn nhạc sư Quỳ. Nhạc sư Quỳ ra sức phát huy tài năng âm nhạc của mình.
Vua Thuấn rất quý trọng tài năng của vị nhạc sư này nên quyết định phái ông đi khắp nơi để chỉnh đốn âm luật, truyền bá âm nhạc. Có người lo chỉ với một mình nhạc sư Quỳ thì khó mà hoàn thành nhiệm vụ nặng nề, nên đã kiến nghị với vua Thuấn nên tìm thêm vài vị nhạc sư nữa.
Vua Thuấn nghe qua lắc đầu nói rằng: “Cái gốc của âm nhạc, quý ở chỗ hoà. Người tinh thông âm nhạc như ông Quỳ, một mình là đủ.” Quả nhiên thông qua âm nhạc, nhạc sư Quỳ đã đem văn hoá Trung Nguyên truyền bá ra khắp nơi. Về sau, Vua Thuấn lại lệnh cho nhạc sư Quỳ sửa chữa ca khúc “Cửu chiêu”, thể hiện rõ ràng hơn ân đức của Thượng Thiên.
Dưới thời Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn âm nhạc luôn được chú trọng ở mức cao nhất. Âm nhạc thời ấy luôn chứa đựng sự chân chính, phản ánh ra đạo đức cao đẹp của con người, cách sống thuận theo tự nhiên, ca ngợi và biết ơn Thượng Thiên. Bởi vậy mà lòng kính ngưỡng của con người thời ấy đối với Thượng Thiên cũng ở mức độ rất cao. Âm nhạc tương hợp với Trời, tương hòa với Đất và con người cũng sống hòa hợp, bình an cùng vạn vật tự nhiên.
An Hòa (dịch và t/h)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét