TẦU ĐIỆN HÀ NỘI XƯA - MỘT THỜI ĐỂ NHỚ
TẦU ĐIỆN HÀ NỘI XƯA - MỘT THỜI ĐỂ NHỚ VÀ TIẾC NUỐI.
( Nhớ tiếng leng keng tầu sớm khuya...)
Tháng 5/1890, Công ty Điện địa Đông Dương xin phép chính quyền thực dân thành lập một cơ sở khai thác giao thông bằng tàu điện gọi là “Nhà máy xe điện” thuộc vào Công ty này (tên Pháp là Usine de la Société des tramways électriques de L’ Indochine). Nhà máy đó đặt ở đầu làng Thuỵ Khuê nên dân Hà Nội ngày ấy gọi là “Nhà máy tàu điện Thuỵ Khuê”.
Ngày 13 tháng 9 năm 1900 chạy thử tuyến đường đầu tiên Bờ Hồ - Thuỵ Khuê. Chợ Đồng Xuân đông hẳn lên và suốt ngày nhộn nhịp. “Nhà tàu” hái ra tiền, khối lợi nhuận.
Do vậy sang năm 1901 có thêm đường Bờ Hồ - Thái Hà ấp, khánh thành ngày 10/11/1901, lúc đó đường tàu chạy dọc Hàng Bông sang Cửa Nam, theo đường Sinh Từ (nay là Nguyễn Khuyến) rẽ sang trước mặt Văn Miếu rồi ra đường Hàng Bột (nay là Tôn Đức Thắng).
Hai năm sau mới bỏ đoạn Cửa Nam - Sinh Từ - Văn Miếu mà cho tàu chạy theo phố Hàng Đẫy (nay là Nguyễn Thái Học) tới lưng Văn Miếu thì rẽ sang Hàng Bột.
Năm 1906 làm đường Bờ Hồ - Chợ Mơ, khánh thành ngày 18/12/1906. Ít năm sau, kéo dài đường Bờ Hồ - Thuỵ Khuê lên tận Chợ Bưởi.
Năm 1915 đường Bờ Hồ - Thái Hà ấp được kéo vào thị xã Hà Đông nhưng phải dừng ở bên này Cầu Đơ vì cây cầu này yếu, không chịu được tải trọng của tàu. Do vậy mà năm 1929 mới có một anh tư bản đề xuất làm cầu Đơ mới để đưa tàu điện vào giữa thị xã (nhưng rút cục vẫn không thực hiện được).
Trong năm 1929 đó có thêm được tuyến Yên Phụ - ngã Tư Đồng Lầm (nay là ngã tư Đại Cồ Việt – Lê Duẩn) để rồi mãi tới tháng 5 năm 1943 mới nối xuống trước cửa nhà thương Vọng (nay là bệnh viện Bạch Mai).
Như vậy là tới năm 1929, từ ga Trung tâm Bờ Hồ (Ga Tàu điện Bờ Hồ nay là ngôi nhà “Hàm cá mập”) toả ra 6 ngã: Lên Yên Phụ ( đến bến Đồng Xuân xuống tầu sang bến hàng Cót đi Yên Phụ ) lên chợ Bưởi, sang Cầu Giấy, vào Hà Đông, xuống chợ Mơ và Vọng, tức cũng là toả ra 6 cửa ô nối nông thôn với nội thành.
Tàu điện Hà Nội tồn tại trên chín thập kỷ. Tiếng chuông leng keng của nó tạo nên một nét riêng biệt của thành phố, đi vào tâm thức nhiều người dân Hà Nội. Do vậy, ai đi xa, khi nhớ về Hà Nội đều phải nhắc đến nó như một cái gì đó rất đặc trưng, không bao giờ phai nhạt trong ký ức.
Thời Pháp thuộc mỗi đoàn tàu có hai hoặc ba toa, ở toa đầu có chia ra hai hạng vé: hạng nhất, hạng nhì. Hạng nhất có ghế đệm, ngồi ngang nhìn thẳng; hạng nhì ngồi dọc ghế cứng. Hàng hoá chất ở dưới ghế, thúng mủng quang gánh móc ở bên ngoài toa cuối.
Thế rồi đến ngày “Hà Nội cháy khói lửa ngập trời”, những ngày tháng Chạp năm 1946, các toa tàu điện trở thành chướng ngại vật rất có hiệu quả ngăn chặn bước đi của các đoàn xe cơ giới của thực dân gây chiến trên các nẻo đường phố phường.
Sau ngày tiếp quản Thủ đô 1954, ta tiếp quản Nhà máy tàu điện. Các đoàn tàu được xoá bỏ cách phân chia thứ hạng và dần dần chữ tàu điện được gọi là xe điện. Xe điện phục vụ nhân dân khá đắc lực trong mấy chục năm ròng, nhất là thời gian sơ tán chống Mỹ.
Sau đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, dường như là do yêu cầu thông thoáng đường phố hoặc văn minh hoá thành phố các tuyến xe điện lần lượt ngừng hoạt động. Đường ray bóc đi, cùng đầu máy, toa xe hẳn là dồn về kho nhà máy. Hơn 30 năm qua, những ai đã từng đi tàu điện vẫn cứ thấy văng vẳng bên tai tiếng leng keng náo nức một thời.
Và bây giờ ai cũng thấy việc xoá bỏ hoàn toàn tầu điện ở Hà Nội là một sai lầm lớn, làm mất đi một nét rất riêng chỉ Hà Nội mới có mà không thể khắc phục được. TIẾC NUỐI.
SƯU TẦM BÀI VÀ ẢNH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét