CÁC LOẠI NĂNG LƯỢNG VÀ TÁC DỤNG CỦA KHÍ CÔNG
Nếu bạn vào google, tìm kiếm từ khóa “khí công”, google sẽ cho ra 184 triệu kết quả trong 0,26 giây, cao hơn cả từ khóa “bóng đá” với 153 triệu kết quả trong 0,33 giây. Điều này chứng tỏ mối quan tâm của cộng đồng đối với khí công là rất lớn, nguyên nhân là do tác dụng tích cực của nó đối với sức khỏe tinh thần và thể chất của con người.
Đối
với giới khoa học, khí công vẫn là thứ gì đó rất huyền bí, đôi lúc mang dáng vẻ
hoang đường. Nhưng ít người biết rằng đã có hàng trăm nghiên cứu khoa học và
hàng ngàn thực nghiệm đã chứng minh được sự tồn tại vật chất và tác dụng của
khí công.
Ở Việt
Nam, hầu như chưa có bất cứ một nghiên cứu khoa học chính thống nào được thực
hiện với khí công. Tuy vậy, ở Trung Quốc, giai đoạn từ năm 1979 đến năm 1999, gần
như toàn bộ các cơ sở nghiên cứu khoa học ở Trung Quốc đều có bộ phận nghiên cứu
về khí công. Hầu hết các báo cáo khoa học về khí công đều chứng minh những tác
dụng kỳ diệu đối với sức khỏe thể chất hoặc tinh thần của con người.
Bài
viết này sẽ tổng hợp các đánh giá và phân tích của hơn 100 báo cáo khoa học ở
Trung Quốc và thế giới, chứng minh sự tồn tại vật chất của “khí” và “công” cũng
như tác dụng của khí công.
1.
Khí công là gì?
Khí
công (氣功, qigong hay chikung)
là một thuật ngữ của Trung Quốc dùng để chỉ rất nhiều hệ thống luyện tập cơ thể
để đạt được sức khoẻ [1] hay luyện tập võ thuật hoặc kết hợp giữa luyện tập cơ
thể và luyện tập tinh thần để tự giác ngộ. [3]
(ảnh qua hivedalston.wordpress.com)
Danh
từ khí công mới xuất hiện vào thời kỳ Đại cách mạng Văn hóa tại Trung Quốc
(1966-1976), chủ yếu được dùng để gọi tên các môn tu luyện có liên quan đến tín
ngưỡng hoặc tu luyện mật truyền từ xa xưa, bắt nguồn từ 2 từ “khí” và “công” nhằm
để tránh bị bài xích và đàn áp vào thời kỳ đó [4]. Sau đó, từ khí công cũng được
sử dụng để chỉ các phương pháp luyện tập của các trường phái võ thuật hoặc các
môn luyện tập cơ thể mới được ra đời sau năm 1980.
Định
nghĩa của từ “khí” (氣) thường xoay quanh các nghĩa
như “hít thở”, “không khí” và “hơi nước” nhưng theo lý thuyết của người Trung
Quốc thì nó cũng có thể dùng trong trường hợp mô tả một loại vật chất mà mắt
người không nhìn thấy được, nó liên quan đến năng lượng và tinh thần [4,
5].
Từ “công” (功)
có nghĩa là thành quả, kết quả, hoặc là một loại vật chất có năng lượng cao.
Hai từ này hợp lại dùng để mô tả các hệ thống và phương pháp “tu dưỡng năng lượng”
và sử dụng nguồn năng lượng bên trong các cơ thể sống. [4, 6]
Khí
công được phân thành 3 loại chính:
1.
Khí công trị bệnh và nâng cao sức khỏe: Y học cổ truyền Trung Quốc có
một khoa mục là “khí công trị bệnh” có tác dụng nâng cao sức khỏe, phòng và chữa
trị bệnh tật [7].
2.
Khí công võ thuật: sử dụng phép vận khí, tụ khí (khí được xem là một loại năng
lượng trong cơ thể) để tăng khả năng chống đỡ các đòn đánh, nâng cao khả năng
võ thuật [8].
3.
Khí công tu luyện: Khí công tu luyện còn được gọi là khí công tu nội gồm có các
trường phái như khí công Đạo gia, khí công Phật gia. Khí công tu luyện chú trọng
về những điều vượt khỏi chữa bệnh khoẻ người, giảng về tầng thứ (cảnh giới tư
tưởng) cao hơn, chú trọng về hàm dưỡng và tâm tính. [4]
2.Hệ
thống lý luận và phương pháp tu luyện của khí công
Với
các môn khí công trị bệnh và nâng cao sức khỏe hay khí công võ thuật, điều được
dạy cho người học chủ yếu là : phương pháp thở thuần túy (thở không khí và thở với ý thức
thu nhận sinh khí của vũ trụ ) .Hoặc phương pháp vừa thở vừa kết hợp với các động tác, tư thế luyện tập. Hầu hết các
môn này chú trọng đến việc “luyện động tác”.
Thái Cực Quyền, một môn khí công võ thuật (ảnh: internet)
Như
đã đề cập, khí công chỉ là tên gọi hiện đại của các pháp môn tu luyện cổ xưa để
tránh bị bài xích do tư tưởng cực tả nghiêm trọng thời Cách mạng Văn hóa.
Các pháp môn tu luyện này đều chú trọng việc tu sửa tâm tính, nâng cao tiêu chuẩn
đạo đức, cảnh giới tinh thần. Bởi vì vật chất và tinh thần là một thể thống nhất,
nên khi đạo đức, tinh thần được đề cao, thì thân thể vật chất của người tu luyện
cũng có những biến đổi to lớn. [67]
Với
các môn khí công tu luyện (khí công tu nội), điều được dạy không
chỉ là luyện động tác, mà cả việc tu sửa tâm tính. Mục tiêu hướng đến của các
môn khí công này là sự giác ngộ chứ không phải là chữa bệnh khỏe người, nhưng
trong quá trình tu luyện, khi đạt được yêu cầu về tiêu chuẩn tâm tính, thì bệnh
tật của người tu luyện cũng sẽ đồng thời được thanh lý.
Hầu
hết các môn khí công đang được phổ biến rộng rãi đều không có hệ thống lý luận
hoàn chỉnh, điều được dạy cũng chủ yếu theo hình thức truyền khẩu. Các
môn khí công mật tu đơn truyền mặc dù có thể có hệ thống lý luận cụ thể, nhưng
cũng chỉ được truyền thụ từ sư phụ đến đệ tử qua hình thức khẩu truyền hoặc tâm
truyền, hoàn toàn không lưu lại sách vở.
3.
Năm phương pháp khoa học đo lường sự hiện hữu vật chất và tác dụng của ngoại
khí
Năm
2004, Tiến sỹ Kevin W. Chen tại Đại học Y tế và Nha khoa New Jersey, Hoa Kỳ đã
có báo cáo khoa học đăng trên tạp chí Các liệu pháp
thay thế (Alternative Therapies) với tựa đề “Một đánh giá phân tích về các
nghiên cứu về đo lường tác động của ngoại khí ở Trung Quốc”. [9]
Nhằm
giúp cho những nhà khoa học sau này tránh lặp lại những nghiên cứu đã thực hiện
trước đó, báo cáo khoa học của Tiến sỹ Kevin đã phân tích, đánh giá 97 nghiên cứu
khoa học về việc xác định sự tồn tại dưới dạng vật chất và đo lường tác dụng của
ngoại khí (khí phát ra ngoài thân thể – External Qi – EQ, có thể được coi là
bao gồm cả “khí” và “công”) của các thầy chữa bệnh bằng khí công tại Trung Quốc,
giai đoạn đầu những năm 1980 đến cuối những năm 1990, dựa trên 5 phương pháp
phát hiện ngoại khí khác nhau:
- Máy phát hiện tín hiệu vật
lý
- Phương pháp động hóa học
- Sử dụng vật liệu sinh học
làm phương tiện phát hiện
- Sử dụng các động vật sống
làm phương tiện phát hiện
- Sử dụng cơ thể người làm
phương tiện phát hiện
Dưới
đây là kết quả đo lường sự tồn tại vật chất và tác động của ngoại khí dựa trên
5 phương pháp khoa học được 97 báo cáo khoa học nói đến:
3.1.
Bằng máy phát hiện tín hiệu vật lý
Máy
phát hiện tín hiệu vật lý là công cụ chính trong giai đoạn đầu nghiên cứu ngoại
khí. Nhiều nghiên cứu ban đầu đã đo lường tác dụng của ngoại khí ở các khía cạnh
vật lý như: ánh sáng, điện, nhiệt, âm và từ tính. Một số kết quả như sau:
Khi
một khí công sư phát khí để chữa bệnh, một máy đo nhiệt độ loại AGA có thể hiển
thị toàn bộ quá trình phát khí với dòng nhiệt di chuyển từ cánh tay đến lòng
bàn tay và cuối cùng đến đầu ngón tay của khí công sư. Sau đó nhiệt độ bề mặt của
khu vực bị bệnh của bệnh nhân tăng lên 3oC mặt dù 2 người cách xa nhau một mét
[11].
Video một khí công
sư phát khí đốt cháy tờ báo trước mặt các phóng viên phương Tây:
Học
viện Y học Trung Quốc, Thượng Hải đã thực hiện hơn 900 thực nghiệm để xác định
dòng chảy của các hạt vật chất trong ngoại khí. Trong thí nghiệm, một máy phát
hiện vi áp suất được đặt cách người luyện khí công các khoảng cách từ 0,5 – 2
mét đã đo thấy sóng áp suất xuất hiện khi người đó phát khí. Điều đó chứng tỏ
có các hạt vật chất có khối lượng chưa được xác định đã phát ra từ khí của người
luyện khí công [10]. (xem bài: Công năng đặc dị: Trương Bảo Thắng đi xuyên tường và
khôi phục vật thể).
Nhiều
nghiên cứu đã sử dụng các máy dò vật lý khác nhau, bao gồm từ trường, tia hồng
ngoại, sóng siêu âm, tia Gamma, vi sóng, tia X, tín hiệu vô tuyến tần số cao,
v.v., và cũng đều xác định được các tín hiệu vật lý tạo ra bởi những người tập
khí công.
3.2.
Bằng phương pháp động hóa học
Đến
cuối những năm 1980, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng ngoại khí có thể ảnh hưởng
đến một số phản ứng hóa học, ví dụ như đẩy nhanh quá trình phản ứng.
Một
phản ứng hóa học được sử dụng thường xuyên để phát hiện hiệu ứng ngoại khí là:
Trong
điều kiện bình thường, hydro peroxide (H2O2) sẽ dần dần phân hủy thành nước và
oxy. Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của ngoại khí, phản ứng phân hủy có thể nhanh
hơn nhiều. Chúng ta có thể dễ dàng xác định sự ảnh hưởng của ngoại khí bằng
cách đo thể tích oxy. [12]
Phản
ứng hóa học sau đây được sử dụng để phát hiện ngoại khí, khó thực hiện hơn:
Hexane
bình thường (n-C6H14) và brom, dưới ánh sáng mạnh, sẽ tạo ra bromohexane và
hydro bromide. Phản ứng không xảy ra trong điều kiện ánh sáng bình thường. Tuy
nhiên, dưới ảnh hưởng của ngoại khí, phản ứng sẽ xảy mà không cần ánh sáng mạnh
và màu nâu riêng biệt của Br2 biến mất [13, 14].
Kết
quả này cho thấy ngoại khí có thể chứa thành phần ánh sáng hay photon…
3.3.
Thông qua vật liệu sinh học
Hàng
trăm dự án nghiên cứu đã được thực hiện để khám phá tác động của ngoại khí đối
với thực vật, vi khuẩn, tế bào ung thư ở người và các vật liệu sinh học khác,
và hầu hết chúng đều có một số phát hiện tích cực, mặc dù không phải tất cả
nghiên cứu đều có thiết kế hoàn chỉnh với biện pháp kiểm soát phù hợp.
Hầu
hết các nghiên cứu đều báo cáo tác dụng ức chế ngoại khí đối với sự phát triển
ung thư [25], ví dụ như tế bào ung thư gan ở người (BEL-7402), tế bào ung thư
phổi (SPC-A) [17].
Nhiều nhà nghiên cứu
đã báo cáo rằng tác dụng của ngoại khí có thể đẩy nhanh quá trình nảy mầm và
phát triển của các loại hạt giống khác nhau, bao gồm gạo, lúa mì, đậu Hà Lan, đậu
phộng và nhiều loại thực vật khác [18-23]. (Xem bài: Hạt giống nảy mầm cực nhanh nhờ năng
lượng khí công).
Tôn Trữ Lâm trong một thí nghiệm đẩy nhanh sự nảy mầm của hạt giống (ảnh
qua: collective-evolution.com)
Trung
tâm Nghiên cứu Miễn dịch học ở Bắc Kinh đã thực hiện một loạt nghiên cứu về tác
dụng hai chiều của ngoại khí từ khí công sư Bao Guiwen đối với sự phát triển của
vi khuẩn (E-coli).
Khi ý định của người
chữa bệnh khí công là tiêu diệt vi khuẩn, tỷ lệ ức chế tăng trưởng E-coli so với
nhóm đối chứng (nhóm không được chữa bằng khí công) dao động từ 45% đến 91%.
Trong cùng điều kiện,
khi mục đích của người chữa bệnh khí công là thúc đẩy sự phát triển của vi khuẩn,
tốc độ tăng trưởng E-coli trong nhóm khí công nhanh hơn 2,3 đến 6,9 lần so với
nhóm đối chứng.
Các
thí nghiệm được lặp lại 20 lần trước khi công bố kết quả [24].
Các
nghiên cứu như thế này chính thức đưa khái niệm về ý thức hoặc
tính định hướng vào việc khám phá hiệu ứng ngoại khí.
3.4.
Thông qua động vật sống
Đây
có lẽ là lĩnh vực được lặp lại nhiều nhất trong các nghiên cứu khí công, gồm
nhiều nghiên cứu có chất lượng được kiểm soát cao, cung cấp cơ sở khoa học tốt
để giải thích cơ chế trị liệu khí công trong điều trị ung thư.
Nghiên
cứu trong cơ thể sống về tác dụng ngoại khí trên chuột mang khối u cho thấy tác
dụng ức chế đáng kể của ngoại khí đối với các tế bào ung thư trong các nghiên cứu
khác nhau [16, 26]. Cụ thể:
Nghiên
cứu của Qian và đồng sự kiểm tra ảnh hưởng của ngoại khí đối với sự phát triển
ung thư, sự di căn và thời gian sống của vật chủ. Mô hình khối u đã được tạo ra
ở 114 con chuột bằng cách cấy tế bào U27 hoặc MO4 vào mô dưới da của chúng. Những
con chuột bị cấy ghép khối u được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm điều trị trong
ba nghiên cứu riêng biệt – nhóm khí công (tiếp xúc với ngoại khí 10 đến 30 phút
mỗi ngày trong một khoảng thời gian) và nhóm đối chứng (không điều trị). Kết quả:
- Trong nghiên cứu 1, khối
lượng khối u trung bình trong nhóm khí công thấp hơn đáng kể so với nhóm đối
chứng (2,2 so với 6,3 cm3).
- Trong nghiên cứu 2, tỷ lệ
di căn ở nhóm ngoại khí thấp hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (1/16 so với
6/15).
- Trong nghiên cứu 3, thời
gian sống trung bình trong các nhóm được phát khí (n = 10) dài hơn đáng kể
so với nhóm đối chứng (35,4 so với 30,5 ngày).
Các
nhà nghiên cứu này cũng đã thực hiện các nghiên cứu tương tự với các thiết kế
khác nhau và mỗi nghiên cứu đều cho ra cùng một kết luận [30, 31].
Một
số nhà nghiên cứu khác đã báo cáo độc lập với những phát hiện tương tự, cho thấy
ngoại khí có tác dụng tích cực đối với việc ức chế sự phát
triển của khối u, tăng cường chức năng của các cơ quan cơ thể, tăng chức năng
miễn dịch (tế bào NK và bạch cầu) hoặc giảm lượng đường trong máu ở chuột khi
so sánh với các nhóm kiểm soát [16, 20, 29, 34, 35].
Ngoài
chuột, những động vật được sử dụng thường xuyên nhất trong phòng thí nghiệm,
các động vật khác, chẳng hạn như ruồi [27], thỏ [66], cá [15, 28], chó [32],
cóc [33] và lợn [34] cũng đã được sử dụng để phát hiện tác dụng điều trị của
ngoại khí.
Hầu
hết các nghiên cứu với động vật được thiết kế để đáp lại chỉ trích rằng tác dụng
điều trị của khí công chủ yếu là do hiệu ứng tâm lý của bệnh nhân hoặc gợi ý của
nhà trị liệu.
3.5.
Thông qua cơ thể người
Hiệu
quả điều trị của ngoại khí trực tiếp trên người bệnh đã được báo cáo rộng rãi
trong tài liệu [12, 36, 60].
Các trường hợp thuyên giảm hoàn toàn các bệnh như lồi đĩa đệm cột sống thắt lưng [37-41]; và viêm khớp dạng thấp [42-44] đã được báo cáo và ghi nhận rõ ràng. Cũng có các báo cáo về các trường hợp phục hồi hoàn toàn từ u xơ tử cung [45]; đục thủy tinh thể [46]; hen suyễn [47]; và viêm dây thần kinh ngoại biên vai [48-51]. Ngoài ra còn có các báo cáo về sự cải thiện đáng kể đối với gãy xương [52]; bệnh tim mạch [53-55]; mạch không đều [56]; và liệt nửa người [57-59]; và rất nhiều các chứng bệnh khác.
Chữa bệnh bằng ngoại khí (ảnh: gladystisera.com)
Mặc
dù hầu hết các báo cáo này dựa trên các nghiên cứu lâm sàng quan sát, thay vì
các thử nghiệm lâm sàng mù đôi(khi cả bác sĩ lẫn bệnh nhân đều không biết bệnh
nhân đang được điều trị bằng liệu pháp khí công), nhiều nghiên cứu thực sự có một
nhóm đối chứng.
Những
căn bệnh này đều được coi là không thể chữa được bằng Tây y, nhưng đã đạt được
kết quả điều trị đáng ngạc nhiên từ liệu pháp khí công. Do đó, những bệnh nhân
sử dụng liệu pháp thông thường là nhóm đối chứng. Mặc dù chúng ta không thể loại
bỏ hiệu ứng giả dược, nhưng hiệu quả trị bệnh được báo cáo của ngoại khí đã cho
thấy nó tốt hơn nhiều so với bất kỳ hiệu ứng giả dược nào được ghi lại.
Như
vậy, bằng các thiết bị đo lường hoặc bằng các phương pháp thực nghiệm, các nhà
khoa học đã khẳng định được sự tồn tại vật chất của ngoại khí (có thể được hiểu
là bao gồm “khí” và “công”), là thứ những người tập khí công có thể phát ra.
Các
báo cáo xác định được rằng các vật chất mà các khí công sư phát ra là rất phong
phú, gồm cả từ trường, tia hồng ngoại, sóng siêu âm, tia gamma, vi sóng, tia X,
tín hiệu vô tuyến tần số cao, photon và nhiều khả năng là cả những vật chất mà
các máy móc hiện nay chưa đo lường được.
4.
Hiệu quả của khí công tu nội
Vì hầu
hết các môn khí công tu nội là mật tu hoặc không có tài liệu được công bố, nên
phần này sẽ tổng hợp báo cáo khoa học về tác dụng của Pháp Luân Công – môn khí
công phổ biến, được cho là có hệ thống lý luận độc lập, hoàn chỉnh và luyện tập
công khai ở xã hội hiện đại.
Một
người phương Tây đang tập bài thiền định của Pháp Luân Công (Ảnh: minghui.org)
Trong
báo cáo khoa học trình bày tại Hội nghị Hiệp hội Tham vấn Tâm lý Hoa Kỳ
(American Counseling Association) năm 2016, Maraget Trey, Bác sĩ, Tiến sĩ tâm
lý người Mỹ đã trình bày kết quả của cuộc khảo sát tại Australia năm 2010, cho
thấy hiệu quả về thể chất và tinh thần của những người theo tập môn khí công
này [62].
Cuộc
khảo sát Australia thực chất là luận án tiến sĩ của Tiến sĩ Lau M. M., được tiến
hành bài bản với thiết kế nghiên cứu đầy đủ. Phần khảo sát được tiến
hành theo hình thức phiếu hỏi online, phân thành hai nhóm: những người tập Pháp
Luân Công (360 người) và những người là người thân, bạn bè, đồng nghiệp của họ
– không theo tập môn này (230 người). Việc so sánh hai nhóm này nhằm thu thập
những khác biệt về tình trạng sức khoẻ, trạng thái tinh thần của những người có
một số điều kiện tương đồng như: môi trường công việc, quá trình làm việc…
Sau
đây là một số kết quả của báo cáo:
Tháng
6/2016, tại hội nghị chuyên ngành tổ chức ở Chicago (Mỹ) của Hiệp hội Ung thư
lâm sàng Hoa Kỳ (ASCO), một báo cáo được trình bày tại hội nghị đã đưa ra kết
luận rằng tập luyện Pháp Luân Công có khả năng chữa khỏi hoặc kéo dài sự sống cho
người mắc bệnh ung thư. Báo cáo trên trang web chính thức của ASCO có ghi: 149/152
bệnh nhân ung thư sau khi tập Pháp Luân Công đã khỏi bệnh hoàn toàn sau 5 tháng
đến 1 năm. Ba người còn lại kéo dài được cuộc sống thêm 56 tháng dù theo theo
tiên lượng của các bác sĩ, thời gian của những người này ngắn hơn nhiều [65].
Tuy
có khả năng mang lại sức khỏe thể chất cho người tập luyện [61-65], nhưng hệ thống
lý luận của Pháp Luân Công lại khẳng định pháp môn này không dùng để trị
bệnh và tuyệt đối cấm học viên đi trị bệnh cho người khác. Họ nhấn mạnh
vào mục đích của tu luyện là viên mãn, giải thoát, đưa con người lên tầng thứ
(cảnh giới tinh thần) cao hơn, môn này yêu cầu học viên hàm dưỡng, tu sửa tâm
tính, thăng hoa về đạo đức. Khi đạt được tiêu chuẩn (yêu cầu) tâm tính và đạo đức
của người tu luyện, bệnh tật sẽ được loại trừ mà không sử dụng đến tác động của
ngoại khí. Không chỉ có vậy, Pháp Luân Công cũng có những lý giải rõ ràng về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức, nguồn gốc và mục đích của sinh mệnh con người,
căn nguyên của bệnh tật, v.v. [4].
5.
Là “mê tín” hay một khoa học cao hơn?
(Ảnh: Shutterstock)
Mặc
dù đã tồn tại từ xa xưa và ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại phương Đông
lẫn phương Tây, nhưng khí công – phương pháp luyện tập thân thể và tinh thần rất
hiệu quả đối với con người – dường như vẫn rất xa lạ, mơ hồ và đôi lúc mang vẻ
hoang đường, thậm trí là mê tín đối với giới khoa học.
Bài
viết đã cho thấy các nhà khoa học Trung Quốc và nhiều nước khác trên thế giới
như Mỹ, Úc… đã có rất nhiều nghiên cứu khoa học nghiêm túc về khí công. Các báo
cáo khoa học này đều khẳng định sự tồn tại hiện hữu dưới dạng vật chất của
“khí” và “công”. Bằng các thiết bị và phương pháp thực nghiệm khác nhau, các
nhà khoa học đã khẳng định rằng các vật chất được các khí công sư phát ra là rất
phong phú. Các báo cáo cũng khẳng định tác dụng kỳ diệu của khí công đối với sức
khỏe thể chất và tinh thần của con người.
Việc
chứng minh “khí” và “công” tồn tại dưới dạng vật chất và có thể đo lường được bằng
các nghiên cứu thực nghiệm khoa học có ý nghĩa rất lớn, giúp chúng ta nhận ra rằng
khí công không phải duy tâm, mà vẫn còn nhiều điều chúng ta chưa biết.
“Chúng
tôi tin rằng các nghiên cứu khám phá về ngoại khí đã xác minh tác dụng của nó,
và đã đến lúc chuyển sang giai đoạn tiếp theo về nghiên cứu khí công. Có một loại
nghiên cứu khoa học mới đang được thành lập ở Trung Quốc và Nhật Bản dựa trên
các kết quả nghiên cứu trong khí công, đó là khoa học về cơ thể con người, diễn
ra song song với khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đòi hỏi nhiều kiến
chuyên ngành và sự hợp tác trong khoa học.” – tiến sĩ Kevin viết trong kết
luận báo cáo của mình. [9]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét